Nắm trọn lịch sử máy tính từ quá trình hình thành đến sự phát triển
Bạn có biết rằng để có được sự hiện đại của những chiếc máy tính ngày nay thì chúng ta đã trải qua các trang lịch sử đến hơn 200 năm? Hãy cùng GEARVN tìm hiểu về chặng đường phát triển của máy tính từ lúc còn ở dạng thô sơ đến hình dạng tân tiến như hiện nay ngay tại bài viết sau đây !
Sự khởi đầu của máy tính (1801)
Vào năm 1801 tại Pháp, Joseph Marie Jacquard đã phát minh ra máy dệt tự động sử dụng các thẻ đục lỗ để có thể dệt các thiết kế trên vải. Đây cũng chính là những ý tưởng đầu tiên về khả năng lưu trữ dữ liệu.

Những “ý tưởng” đầu tiên về máy tính (1822 - 1890)
Tại sao chúng mình lại gọi là “ý tưởng”? Chuyện là vào năm 1822, Charles Babbage - một nhà toán học người Anh đã đề xuất lên chính phủ Anh về một chiếc máy có khả năng tính toán các bảng số vận hành bằng hơi nước. Tuy đã nhận được sự đồng ý và tài trợ từ chính phủ nhưng đến cuối cùng thì Charles Babbage vẫn chưa thể hoàn thành điều ấy. Về sau, ông vẫn được mệnh danh chính là “cha đẻ của máy tính” khi đã khai sinh ra khái niệm về máy tính.

Khởi nguyên của máy tính (1936 - 1941)
Năm 1936, ý tưởng về một chiếc máy vạn năng đến từ nhà toán học Alan Turing đã được trình bày và đặt tên là cỗ máy Turing. Khả năng có thể tính toán mọi bất cứ thứ gì của chiếc máy đã trở thành cốt lõi cho những chiếc máy tính hiện đại sau này.

Và vào năm sau là 1937, nhà vật lý và phát minh người Mỹ - J.V.Atanasoff đã cố gắng hiện thực hóa chiếc máy tính mà không sử dụng bánh răng, dây đai hay trục. Đến năm 1941 thì chiếc máy tính đã được hoàn thiện với sự trợ giúp của cậu học trò Clifford Berry. Chiếc máy của Atanasoff đã có thể giải 29 phương trình liên tục khẳng định khả năng lưu trữ dữ liệu.

Trong giữa khoảng thời gian trên, Bill Hewlett và David Packard đã cùng nhau thành lập công ty mang họ của 2 người là Hewlett-Packard vào năm 1939. Sau này, đây chính là nhà sản xuất máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới (theo tạp chí Wired).

Chiếc máy đầu tiên ra đời (1943 - 1945)
Vào năm 1943, hai nhà khoa học John Mauchly và J. Presper Eckert đến từ đại học Pennsylvania đã cùng nhau tạo nên một chiếc máy tính mang tên ENIAC (Electronic Numerical Integrator and Calculator) và đến năm 1945 thì chiếc máy chính thức được hoàn thiện. Chiếc máy tính có trọng lượng lên đến khoảng 30 tấn với kích thước cực kì ấn tượng cùng cấu tạo vô cùng đồ sộ của mình. Cùng với đó là khả năng xử lý 5000 phép tính mỗi giây, ENIAC được xem như “ông tổ” của dòng máy tính kỹ thuật số hiện đại ngày nay.

Máy tính chính thức ứng dụng vào thương mại (1946)
Sau thành công với ENIAC, John Mauchly và J. Presper Eckert đã rời khỏi đại học Pennsylvania và có nhận được tài trợ từ Cục điều tra dân số để tạo nên một chiếc máy tính phục vụ vào nhu cầu thương mại và có thể xử lý các công việc từ chính phủ. Thành quả đó là chiếc máy tính UNIVAC (Universal Automatic Computer).

Bước đột phá dành cho máy tính (1947)
William Shockley, John Bardeen và Walter Brattain đã phát minh ra thứ thay đổi tất cả các thiết bị điện tử từ lúc bấy giờ đến ngày nay và là bước đầu dành thế hệ tiếp theo của máy tính, đó là bóng bán dẫn (transistor). Với thiết bị này, con người có thể ngắt mở nguồn điện bằng những vật liệu cứng mà không cần sử dụng biện pháp hút chân không.

Chặng đường phát triển bền vững của máy tính (1953 đến nay)
Giai đoạn này chính là lúc những chiếc máy tính lần lượt mang đến vô vàn sự cải tiến và nâng cấp nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của con người.
Năm 1953, Thomas Johnson Watson Jr - con trai của Thomas Johnson Watson Sr (tổng giám đốc tại IBM) đã phát minh ra chiếc máy IBM 701 EDPM với mục đích sử dụng cho việc theo dõi Triều Tiên trong cuộc chiến giữa 2 miền nam bắc Hàn. Cùng thời điểm đó thì ngôn ngữ máy tính đầu tiên cũng được ra đời bởi Grace Hopper có tên là COBOL hỗ trợ cho việc giao tiếp giữa con người và máy tính trở nên dễ dàng hơn.

Đến năm 1954, ngôn ngữ máy tính tiếp theo được ra đời từ đội ngũ lập trình viên của IBM dưới sự quản lý của John Backus có tên FORTRAN (FORmula TRANslation). Và trong cùng thời gian đó, để phục vụ cho quốc phòng một hệ thống tính toán khổng lồ cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng mang tên SAGE được thiết kế nhằm hỗ trợ cho lực lượng không quân trong việc theo dõi radar theo thời gian thực.

Sang năm 1958, Jack Kilby và Robert Noyce đã chế tạo thành công thiết bị mang tên chip máy tính. Đây chính là “bộ não” dành cho mọi chiếc máy tính hiện nay và nhờ có phát minh mà sau đó Jack Kilby đã nhận về cho mình giải thưởng Nobel Vật Lý vào năm 2000.

Nhờ vào sự có mặt của chip máy tính mà những chiếc máy tính càng ngày càng thông minh và hữu ích hơn cho con người. Đến năm 1960, hãng Nippon Electric Company (NEC) cho ra mắt chiếc máy tính bán dẫn có tên là NEAC 2203, có thể sử dụng trong nhiều lĩnh vực như kinh doanh, khoa học và ứng dụng kỹ thuật.

Vào năm 1964, định dạng về chiếc máy tính đầu tiên đã được ra mắt bởi nhà phát minh Douglas Engelbart khi có đầy những phụ kiện như chuột máy tính và giao diện người dùng (GUI). Đây là bước nhảy tuyệt vời khi đã đưa máy tính đến gần hơn với mọi người dùng phổ thông. Tận dụng điều đó, IBM tiếp tục mang đến sản phẩm IBM System/360 có thể xử lý nhiều tác vụ từ nhỏ đến lớn trong cùng năm. Không dừng lại ở đó, phiên bản cao cấp của IBM System/360 còn đã có mặt trong các sứ mệnh trên các con tàu vũ trụ Apollo của NASA hay giúp theo dõi lưu lượng không khí giúp ích trong việc dự báo thời tiết.

Cũng trong năm 1964, chiếc siêu máy tính đầu tiên được ra đời dưới bàn tay của Seymour Cray và sản xuất bởi CDC (Control Data Corporation) có tên là CDC 6600. Đó là chiếc máy tính có tốc độ nhanh nhất trên thế giới vào thời điểm đó cho đến 1969 thì CDC 6600 bị “soán ngôi” bởi chính sản phẩm tiếp theo của chính “cha đẻ”.

Trong thời gian đó, chính xác là vào năm 1965, DEC PDP-8 - chiếc máy tính mini được thương mại hóa thành công đầu tiên trên thế giới được thiết kế bởi Gordon Bell. Khi bước ra ánh sáng, sản phẩm của công ty Digital Equipment Corporation (DEC) đã bán được hơn 50000 máy. Chiếc máy tính có thể thực hiện mọi công việc mà System/360 làm được nhưng DEC PDP-8 được bán với giá 16000 USD còn sản phẩm từ nhà IBM lên đến vài trăm ngàn USD cùng kích thước có phần cồng kềnh.

Tiếp tục trong năm 1965, chiếc máy tính để bàn đầu tiên đã được ra mắt với tên Programma 101 sản xuất bởi Olivetti SpA. Với trọng lượng khoảng 30kg và có kích thước tương đồng với chiếc máy đánh chữ thì chiếc máy tính đã mang lại ý tưởng mới dành cho thế hệ máy tính cá nhân.

Đến năm 1970, chiếc máy tính cá nhân đầu tiên đã được hoàn thiện với đầy đủ các phụ kiện như chuột máy tính, bàn phím, màn hình và giao diện người dùng (GUI) mang tên là Xerox Alto của Xerox PARC. Trong cùng năm, sau 2 năm thành lập thì Intel đã cho ra mắt Intel 1103, là chip Dynamic Access Memory đầu tiên để có thể thay thế bộ nhớ lõi cho nhiều ứng dụng.

Từ năm 1974 đến 1977, thị trường máy tính cá nhân trở nên sôi nổi với sự ra mắt lần lượt của nhiều dòng sản phẩm như Scelbi & Mark-8 Altair, IBM 5100, TRS-80,... Sau đó, Paul Allen và Bill Gates đã đề nghị được viết phần mềm cho chiếc máy tính Altair 8800 bằng ngôn ngữ BASIC và sau sự thành công ấy thì 2 người đàn ông ấy đã thành lập lên Microsoft vào ngày 4 tháng 4 năm 1975. Sau đó thì chính là sự lớn mạnh mà chúng ta biết về Microsoft hiện nay.

Sau sự thành công của thế hệ máy tính CDC, Seymour Cray quay trở lại đường đua của những chiếc siêu máy tính với cái tên Cray-1 vào năm 1975. Mức giá trên trời cùng thiết kế dạng chữ C độc đáo không thể ngăn cản chiếc máy vẫn được săn đón với số lượng 80 chiếc và trở thành một trong những siêu máy tính thành công nhất thế giới.

Ở trong khoảng thời gian ấy, Apple Computers được thành lập bởi Steve Jobs và Steve Wozniak vào ngày 1 tháng 4 năm 1976. Trong khi Steve Wozniak tạo nên thiết kế và chế tạo thủ công chiếc Apple I thì Steve Jobs đã nảy ra ý tưởng bán chúng và cũng đã bán được 50 chiếc máy cho Byte Shop ở Mountain View, California với giá 666 USD. Apple I là chiếc máy tính đầu tiên chạy trên bo mạch đơn.

Trong năm 1977, chiếc máy tính cá nhân từ Radio Shack mang tên TRS-80 ra mắt và khi lên kệ thì chiếc máy như một “vụ nổ lớn” với 3000 chiếc máy đã đến tay người dùng. TRS-80 đến với mọi người dùng, dù chuyên nghiệp hay không chuyên, điều này đã thúc đẩy mọi người đến nhu cầu sở hữu cho mình một chiếc máy tính cá nhân khi họ có thể làm mọi điều mình thích với chương trình trên máy.

Tiếp tục tại năm 1977, Steve Wozniak đã thiết kế nên phiên bản tiếp theo của chiếc máy tính trước đó và đặt tên là Apple II. Ra mắt tại hội chợ công nghệ West Coast Computer Faire đầu tiên, Apple II đã mang tới cho khách tham quan tại đó một sự đột phá khi đồ họa trên chiếc máy đã có màu sắc và có thêm bộ phận cassette âm thanh lưu trữ.

Đến năm 1981, IBM có cho mình chiếc máy tính cá nhân đầu tiên của hãng mang tên Acorn. Chiếc máy tính sử dụng chip Intel, chạy hệ điều hành MS-DOS của Microsoft và bạn có thể thấy đây chính là nền tảng đầu tiên của cấu hình PC phổ biến nhất hiện nay. Acorn được bán thông qua nhà phân phối Sears & Roebuck và Computerland.

Trong cùng năm 1981, một chiếc máy tính xách tay mang tên Osborne 1 phát hành bởi Osborne Computer Corporation với cân nặng khoảng 10.8kg. Chiếc máy tính xách tay sử dụng hệ điều hành CP / M 2.2 với một thư viện phần mềm mở rộng giúp cho khái niệm máy tính dần trở nên phổ biến với người dùng.

Vào năm 1983, Apple quay lại thị trường máy tính cá nhân với chiếc máy mang tên Lisa và đây chính là chiếc máy tính cá nhân đầu tiên có cho mình giao diện người dùng đồ họa. Về mặt thương mại, đây là một “cú ngã” với Apple khi Lisa không thành công trong việc thu hút người dùng. Nhưng đây chính là bước tiến thúc đẩy cho sản phẩm của hãng tương lai.

Năm 1983 cũng là thời gian mà Hewlett-Packard 150 ra đời. Chiếc máy tính thực sự trở thành một bước đột phá trong thị trường máy tính cá nhân với công nghệ màn hình cảm ứng. Chiếc màn hình 9-inch của HP 150 trang bị bên trong là các bộ phát và cảm biến hồng ngoại có khả năng phát hiện vị trí chạm vào màn hình. Chắc chắn đây là một trải nghiệm vô cùng mới mẻ dành cho người yêu công nghệ lúc bấy giờ.

Năm 1984 đánh dấu một cột mốc mới đối với Apple khi chiếc máy tính Macintosh đã xuất hiện. Phần giao diện đã được trau chuốt hơn với hệ điều hành độc quyền của Apple với tên gọi là Mac OS (bây giờ macOS). Sự mượt mà cùng giao diện thu hút đã khiến cho tạp chí Consumer Reports phải gọi Macintosh là một màn trình diễn kỹ thuật tuyệt vời.

Ngay sau đó một năm, vào 1985 thì Microsoft cũng đã tung ra hệ điều hành Windows với GUI đặc trưng của chính thương hiệu. Đây cũng là khởi đầu cho trận chiến công nghệ trên các dòng máy tính từ đó đến bây giờ.

Để củng cố cho sức mạnh cùng tiềm năng ngày càng lớn của máy tính (có thể gọi là PC) thì Intel đã cho ra mắt bộ vi xử lý Pentium vào năm 1993. Điều này đã tăng cường sức mạnh xử lý cho những chiếc máy tính khi có thể đáp ứng nhiều nhu cầu sử dụng hơn như là đồ họa, làm nhạc, …

Đến năm 1994, các tựa game trên máy tính cũng dần được xuất hiện và thu hút vô vàn người chơi biến các bộ máy tính cá nhân không còn đơn thuần sử dụng cho công việc mà còn trở thành những bộ máy tính chơi game (PC Gaming). Một vài tựa game ta có thể nhắc đến như là Doom II, Mortal Kombat 2, Star Wars: Dark Forces,...

Năm 1999, WiFi thịnh hành hơn với người dùng máy tính mặc dù đã xuất hiện vào 1997. WiFi cung cấp khả năng kết nối Internet không dây cho người dùng và giúp mọi người kết nối với thế giới.

Tổng kết lại, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về lịch sử của máy tính với chặng đường phát triển của phát minh tuyệt vời này đến với thế giới. Nếu có bất kì thiếu sót hay thông tin nào chưa đúng thì các bạn hãy đóng góp cho GEARVN bằng cách bình luận ở bên dưới nhé. PEACE !